Theo các bác sĩ thú y, bệnh cầu trùng là bệnh do động vật nguyên sinh ký sinh gây ra, bệnh lây lan nhanh và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đàn bồ câu. Bệnh do ký sinh trùng đơn bào thuộc giống Eimeria gây ra. Đây là những loài ký sinh nội bào bắt buộc, có chu kỳ sống phức tạp, bao gồm cả giai đoạn hữu tính và vô tính. Ở chim bồ câu, Eimeria ảnh hưởng đến đường ruột, làm cho nó dễ mắc các bệnh khác (viêm ruột hoại tử) và làm cho cơ quan này giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng. Từ đó dẫn đến chim bị chết.
Bệnh cầu trùng ở chim bồ câu
Tỷ lệ nhiễm bệnh được báo cáo là 5% -72%, và tỷ lệ tử vong trên toàn thế giới ở bồ câu non thay đổi từ 5% đến 70%, với hầu hết các trường hợp tử vong xảy ra vào tháng thứ ba và thứ tư của cuộc đời. Bài viết hôm nay của chúng tôi chia sẻ về vòng đời của E. colagen và E. labbeana, đường lây truyền, các dấu hiệu lâm sàng và bệnh lý thường gặp của bệnh cầu trùng. Các lựa chọn hóa trị liệu được thảo luận bao gồm amprolium, sulfonamides, clazuril và toltrazuril. Các lý do để sử dụng toltrazuril bao gồm sự đề kháng ngày càng tăng đối với các loại thuốc khác, chẳng hạn như sulfonamid và amprolium,
Đặc điểm dịch tễ bệnh chim bồ câu
Cơ chế tác động: Cầu trùng ở dạng cảm nhiễm sau khi xâm nhập vào đường tiêu hóa của bồ câu qua thức ăn, nước uống, sẽ phát triển và ký sinh ở niêm mạc ruột non và ruột già của bồ câu. Tại đây, ký sinh trùng sẽ chiếm đoạt chất dinh dưỡng làm cho bồ câu gầy, yếu, giảm tăng trọng; Gây tổn thương niêm mạc ruột, làm bong tróc nhung mao ruột, dẫn đến viêm ruột do nhiễm khuẩn thứ phát do E. coli, Salmonella spp và các vi khuẩn khác. Các trường hợp bệnh nặng bồ câu sẽ bị viêm ruột, xuất huyết. Đối tượng cảm nhiễm: Bệnh thường xuất hiện ở bồ câu 1 – 4 tháng tuổi.
Đường lây truyền: Bệnh lây qua đường tiêu hóa. Bồ câu bị bệnh cầu trùng hoặc bồ câu khỏi bệnh nhưng còn mang trùng sẽ bài thải trứng cầu trùng theo phân ra nền chuồng, là nguồn gốc lây lan bệnh trong trại. Trứng cầu trùng trên nền chuồng sẽ nhiễm vào thức ăn, nước uống, khi bồ câu nhặt thức ăn có trứng cầu trùng, chúng sẽ đi vào ruột và gây bệnh.Mùa vụ: Bệnh thường xảy ra vào những giai đoạn thời tiết giao mùa như cuối xuân sang hè hoặc thu sang đông. Tuy nhiên, tại những cơ sở chăn nuôi ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh, bệnh có thể xảy ra quanh năm.
Triệu chứng của bệnh
Khi nhiễm bệnh, bồ câu thường phát triển chậm và gầy, yếu, xuất hiện thêm các triệu chứng như ỉa phân lỏng, có nhiều dịch nhày, đôi khi phân có máu do xuất huyết niêm mạc ruột. Bồ câu bị bệnh nặng có thể chết do ỉa chảy và kiệt sức.
Đường lây truyền bệnh
Bệnh lây qua đường tiêu hóa. Chim bồ câu hoặc chim bồ câu đã khỏi bệnh. Nhưng vẫn mang vi khuẩn sẽ loại bỏ trứng cầu trùng ra khỏi phân sàn. Đây là nguồn lây lan dịch bệnh trong trang trại.
Trứng cầu trùng ở đáy lồng có thể làm ô nhiễm thức ăn và nước uống, khi bồ câu nhặt thức ăn có chứa trứng cầu trùng sẽ chui vào ruột và gây bệnh. Ví dụ, cuối mùa xuân sang mùa hè hoặc mùa thu sang mùa đông. Tuy nhiên, ở những trang trại bị ô nhiễm và không đảm bảo vệ sinh; dịch bệnh có thể xảy ra quanh năm.
Chẩn đoán bệnh
Kiểm tra phân tìm noãn nang của cầu trùng. Sau đó quan sát hình dạng của noãn nang cầu trùng; nuôi cấy noãn nang, theo dõi các giai đoạn phát triển và mổ khám bồ câu, xác định vị trí ký sinh của cầu trùng trong hệ thống tiêu hóa để định loại loài cầu trùng ký sinh.
Điều trị bệnh cầu trùng
Bệnh cầu trùng có thể ghép vi khuẩn đường ruột (E.coli hoặc Salmonella…) cho nên cần điều trị cả 2 bệnh này cùng lúc. Thực hiện các biện pháp điều trị theo phác đồ sau:
Pharticoc-plus, 10 g/7 lít nước, liên tục 3 ngày, nghỉ 2 ngày rồi cho uống tiếp 2 ngày; Hoặc Pharm-cox G, 1 ml/lít nước uống, liên tục 48 giờ hoặc 3 ml/lít nước uống, 8 giờ/ngày, liên tục 2 ngày để diệt cầu trùng.
Cùng đó, cho bồ câu uống kèm một trong các loại kháng sinh sau: Oracin-pharm (1 ml/1,5 – 2 lít nước uống); Pharcolivet, Ampi-coli pharm (10 g/2,5 lít nước); Pharmequin, Pharamox G, Gatonic-plus (1 g/lít nước uống)… liên tục trong 3 – 5 ngày.
Phòng bệnh cầu trùng
Thực hiện tốt các biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi. Nhập giống bồ câu từ các cơ sở giống an toàn về bệnh cúm; các bệnh truyền nhiễm. Người nuôi nên nuôi cách ly bổ câu mới nhập trại ít nhất trong 2 tuần đầu. Nếu thấy đàn chim vẫn hoàn toàn khỏe mạnh; không có biểu hiện dịch bệnh mới nhập vào khu vực chăn nuôi.
Tiêm vaccine phòng bệnh. Vệ sinh, quét dọn hàng ngày đối với các dãy chuồng; khu vực xung quanh chuồng và các lối đi. Định kỳ phun thuốc sát trùng (Chlorine 3%, Formol 2%) 2 tuần/lần đối với toàn bộ khu trại, chuồng nuôi kể cả khu vực đệm lót.
Thức ăn đảm bảo chất lượng, nước uống sạch sẽ. Nếu đàn bồ câu có nguy cơ bị bệnh về đường tiêu hóa. Người nuôi có thể dùng tỏi với liều 5 g/kg trọng lượng.